1.
Hôm qua trời mưa bão, tôi cho lớp W4GZ bắt đầu trễ hơn một chút để các bạn ở SG và HN kịp về nhà. Trong thời gian chờ, tôi và các bạn khác xem một video của Big Think:
Sam Harris: Breaking the thought trap of anger
Trong video này, Sam bàn về sự tức giận. Một mặt, ông nói rằng loài người bị cảm xúc chi phối chỉ bằng việc có những suy nghĩ, hơn là hoàn cảnh thực. Như suy nghĩ về tương lai hoặc quá khứ, có thể làm cơn giận dâng trào và chiếm lấy tâm trí lẫn cơ thể. Mặt khác, chu trình bán hủy của cơn giận cũng nhanh, đôi khi chỉ tốn vài chục giây để chúng ta nhận ra mình đang phản ứng thái quá.
Nhưng vì chúng ta không thể ngừng suy nghĩ, nên cảm giác cay đắng ấy lại trào dâng trở lại khi luồng suy nghĩ mới ập tới, trước khi nhanh chóng biến mất... rồi cứ như vậy.
Sự tức giận, hay lo âu, dù là cảm xúc tiêu cực, nhưng nó ở đó vì cho thấy sự hữu dụng cho sinh tồn. Trong quá khứ, chúng ta cần chúng để lên kế hoạch cho tương lai và nhắc nhở phải hoàn thành việc quan trọng (lo âu), hay làm nóng cơ thể ngay lập tức để bật trạng thái chiến hay chạy (tức giận). Ngày nay, sự kiện thực sự cấp thiết tới mức cần bật chiến hay chạy không nhiều. Nhưng chúng ta dường như phải đối mặt với nỗi tức giận dai dẳng hơn, khi bị buộc phải nghĩ về những điều khó chịu liên tục. Bất công xã hội, sự kiện tiêu cực và những mong ước dang dở làm ta lo lắng và tức giận. Ta cảm thấy bất lực. Truyền thông và báo chí mang vấn đề ở khắp nơi tới bắt ta suy nghĩ mỗi ngày. Những cơn giận cũng được kích hoạt mỗi khi cần suy nghĩ.
Nhưng vì sao chúng ta phải tức giận. Vì cuộc sống chưa tốt đẹp như ta vẫn mong? Nhưng liệu sự tốt đẹp ấy có thể được dựng xây từ nỗi căm thù của con người hay không. Hay những bất công xã hội, và các cuộc chiến, được thúc đẩy và khó cứu vãn bởi chính những ích kỉ, tham lam, nỗi sợ và sự tức giận của con người?
Thực ra, đây là thời đại tốt nhất homo sapiens có tính tới thời điểm hiện tại. Như vậy, chúng ta có cơ sở để tin rằng thế giới có thể trở thành nơi tốt đẹp hơn nữa - dù không phải bây giờ. Ta luôn có lý do hợp lý cho sự tức giận của mình, nhưng ta có cần phải làm vậy mọi lúc hay không?
Ngày 15 tháng 7 năm 1944:�"Thật hoàn toàn không thể nào xây dựng cuộc đời mình trên nền tảng của hỗn loạn, đau khổ và cái chết. Tôi nhìn thấy thế giới đang dần bị biến thành hoang mạc, tôi nghe thấy tiếng sấm đang đến gần - thứ một ngày nào đó cũng sẽ hủy diệt chúng tôi. Tôi cảm nhận được nỗi đau của hàng triệu con người. Ấy vậy mà, khi tôi ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, tôi vẫn cảm thấy bằng cách nào đó mọi thứ rồi sẽ thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn, rằng sự tàn bạo này cũng sẽ kết thúc, rằng hòa bình và tĩnh lặng sẽ quay trở lại một lần nữa. Trong lúc chờ đợi, tôi phải giữ vững những lý tưởng của mình. Biết đâu, sẽ có một ngày tôi có thể biến chúng thành hiện thực." - Anna Frank.
Anna Frank, một cô bé người Do Thái, đã luôn giữ lấy niềm hi vọng của mình trong hầu như mọi trang nhật ký cô viết dưới thời Đức Quốc Xã. Động lực cho niềm hi vọng ấy là gì, tôi thực sự không biết.
Tôi cũng là người luôn nuôi dưỡng hi vọng. Tôi nghĩ đó là hạt giống kì lạ của con người, chưa từng được xác định hay thảo luận đầy đủ ở bất kỳ đâu. Chúng được nhận diện và dán nhãn, nhưng chỉ có thế. Hiểu biết mơ hồ về niềm hi vọng thực ra cũng là một chuyện đáng hi vọng. Nhưng để xây dựng niềm hi vọng, chúng ta cần - bằng cách này hay cách khác - tự thao túng rằng mình sẽ bất tử và khả năng là vô hạn. Bởi chỉ cần nhớ lại rằng rồi mình sẽ chết, rằng mình sẽ không thể có đủ thời gian để thay đổi mọi chuyện, hoặc những điều tốt đẹp sẽ không tới lượt mình hưởng thụ, bạn sẽ cảm thấy tức giận. Nhiều người khi về già lại càng bị nỗi căm giận ăn mòn cũng bởi thế. Thế nên, tôi cố gắng mỗi ngày để vượt qua nỗi sợ, để vượt qua được sự tức giận của chính mình.
Giờ đây, tôi nhẹ nhàng hơn khi phải tiếp xúc với những "ông chủ" không giỏi (hoặc không thèm?) giấu sự hả hê của họ về "lao động Việt Nam thật rẻ" và hệ thống họ đã quen chơi đùa. Tôi cũng chẳng phán xét những người giàu có nỗ lực tìm cách học thiền định hay đọc sách Phật Giáo để tìm cách trốn chạy khỏi cảm xúc tiêu cực về những việc họ đã làm, hoặc không làm. Tôi cũng không thấy thôi thúc và sốt ruột khi nhìn những người yếu thế không dám đứng lên bảo vệ quyền lợi của chính mình.
Tôi không muốn mình bị nỗi sợ và sự tức giận kiểm soát, thao túng và thúc đẩy hành động ngay lập tức.
Tôi làm những gì cần làm. Chill.
2.
Kể từ sau thời kì đồ đá, trí tuệ con người gắn liền với công cụ. Bởi có triết lý tới mấy, câu hỏi vẫn nằm đó nhìn bạn: thế rốt cuộc bạn sẽ dùng công cụ gì để hiện thực hoá nó?
Điều này trở nên căng thẳng hơn từ sau cách mạng công nghiệp, khi Marx tuyên bố (và tôi diễn giải lại) rằng ai sở hữu công cụ sau cùng sẽ sở hữu tất cả. Đến thời AI, sự thú vị đã lên tới đỉnh điểm. Giờ đây, những bộ não thông tuệ nhất của nhân loại, từ giáo sư nhà nghiên cứu, đến nghệ sĩ nhà phát triển, rồi nhà đầu tư nhà sáng lập… cũng đều móc túi trả tiền cho AI vì chẳng thể làm gì khác. AI đáng sợ không vì nó là “lựa chọn tốt hơn”, nó được định hướng để trở thành lựa chọn không thể thay thế.
Nhiều năm qua, thị trường lao động và giáo dục cũng xoay quanh bài toán công cụ. Muốn lương cao, dù làm truyền thống như kĩ sư cơ khí, hay mới mẻ như lập trình viên… bạn cần thông thạo công cụ. “Lý tưởng” là thứ thừa thãi vì thường bạn sẽ làm theo yêu cầu người khác. Hiển nhiên bạn không được đứng trước chiếc máy vài chục tỷ rồi thích làm gì cũng được. Nếu cần lý tưởng, hẳn là nghĩ xem liệu có tồn tại lẽ sống nào là “sống không cần lý tưởng” để còn theo đuổi? Trường ĐH dần trở nên vô dụng vì dạy công cụ chậm chạp và lỗi thời. Doanh nghiệp biến thành cái chợ tuyển và đuổi người cũng theo trend công cụ. Bản thân những nhà phát triển cũng chạy đua để làm công cụ, hoặc “công cụ giúp hỗ trợ dùng công cụ”, với niềm tin chỉ như vậy mới mong giàu được. Dù họ chỉ là một nhóm rất đông những người đang phải trả tiền cho khoá học và công cụ sơ cấp hơn nhằm thoả ước mơ đó. Nền kinh tế fiat bị ponzi hoá chậm rãi, và ai cũng chạy theo cuộc đua tạo và bán công cụ để nhận tín dụng. Và tiền, hay tín dụng, cũng chỉ là công cụ.
Nếu mớ công cụ ấy không thể đem tới năng suất nhiều hơn, chỉ gây kiệt sức diện rộng, loài người nên chuẩn bị cho thời loạn lạc.
Lý do tôi chọn theo đuổi chữ viết, và dạy viết, vì chữ viết cũng là công cụ. Một bộ công cụ đơn giản, tiện dụng nhưng mạnh mẽ. Chúng lâu đời, và là nhà sáng tạo của nền văn minh - chứ không phải phát minh được sinh ra từ đó. Chúng có thể gây kiệt sức, nhưng phần lớn thời gian chúng mang tính kiến tạo.
Ở thời AI, chữ viết không chỉ mạnh hơn vì bạn có thể dùng nó giao tiếp với công cụ. Nó mạnh hơn vì công cụ phụ thuộc ngày càng nhiều hơn vào bối cảnh (context) được tạo ra bởi ngôn ngữ. Tiếp xúc với chữ viết nhiều hơn, theo cách nghiêm túc hơn, vì vậy là tiếp xúc với một trong những công cụ vĩ đại nhất đã và sẽ khai sinh cái mới cho xã hội.
Với công cụ mạnh, như chữ viết, thái độ càng nghiêm túc càng tốt cho bạn.
3.
Chơi với người giỏi, và họ cũng toàn chơi với người giỏi, họ sẽ xem bạn như người giỏi. Nghĩa là nếu họ thấy khuyết điểm ở bạn họ sẽ xem là “tiềm năng có thể phát triển” và khó khăn của bạn là “điều cần được giúp đỡ để trở nên tốt hơn”.
Chơi với những người không giỏi, lại là những người phải sinh tồn với những người không giỏi khác, họ sẽ có cái nhìn bất công với bạn. Họ sẽ nghi ngờ, dè chừng, phán xét và khiến bạn làm thế với bản thân. Sẽ có nhiều sự căng thẳng không cần thiết, còn sự tin tưởng là thứ xa xỉ.
Người giỏi sẽ giỏi nhiều chuyện, trong đó có giỏi vạch giới hạn. Khi đã có giới hạn, dù họ có phải chơi với trùm ma tuý cũng chẳng ngại. Vì chính những giới hạn cứng là thứ tạo ra sự tự tin và niềm tin, chứ không phải cảm xúc. Người không giỏi sống trong môi trường tác động và can thiệp lẫn nhau liên tục, theo cách khó đoán và không có điểm dừng, nên sẽ căng thẳng và lo âu với chính người thân của mình.
Thế nên nếu bạn biết vạch giới hạn tôi sẽ xem bạn là người giỏi. Còn thất bại trong việc đó, vậy dù có dùng lý do tốt đẹp nào cho nó, hay năng lực bạn ra sao, tôi cũng xem bạn như rủi ro thay vì dám tin tưởng thật sự. Nhưng dù sao tôi cũng sẽ vạch giới hạn và đối xử với bạn công bằng bên ngoài giới hạn ấy.
4.
Bài học cơ bản đầu tiên của truyền thông
Mặc dù hình thái của truyền thông ngày càng phức tạp (và sẽ còn phức tạp hơn nữa), nhưng bản chất của chúng vẫn xoay quanh vài vấn đề kỹ thuật nhất định. Thế nên, trước khi học các khóa tạo dựng thương hiệu cá nhân, tìm hiểu công thức để sáng tạo nội dung hay làm tool để khai thác nền tảng... người làm truyền thông cần biết bản thân cần quan tâm điều gì.
Bài học cơ bản đầu tiên là phải "nói" một cách to, rõ ràng.
Đây là bài học đầu tiên bọn trẻ cần được dạy, khi chúng cần tương tác trực tiếp với hệ thống truyền thông truyền thống nhất là truyền miệng. Trong hệ thống này, miệng là nguồn phát thông tin còn tai là bộ phận tiếp nhận. Để dùng miệng tốt, nó cần được hướng dẫn và luyện tập cho từng mục đích chính xác vì đây là cơ quan phức tạp dùng được cho nhiều chuyện. Vấn đề của mọi công cụ phức tạp là nếu bạn không biết cách dùng, bạn không chỉ không làm được chuyện mình muốn, còn có rủi ro cao sẽ rơi vào trường hợp bạn không muốn. Một thứ có càng nhiều chức năng, bạn càng dễ mắc sai lầm và rơi vào chức năng không mong muốn. Simple math.
Miệng có thể dùng để hét, thì thầm, chửi bới, hôn hít và đủ trò khác. Bằng cách dùng miệng, bạn có thể tạo ra thông điệp dễ thương hoặc khó coi, đồng ý hoặc phản đối, khinh bỉ hoặc ngưỡng mộ... và đó là khi nó còn chưa được dùng để nói. Lời nói cũng là một công cụ có nhiều chức năng khác. Hai thứ này khi kết hợp lại sẽ tạo ra rất nhiều biến thể.
Tất nhiên con người thông minh và tự học nhanh nên bạn sẽ thấy việc phân tích này nghe như "nâng cao quan điểm". Nhưng nếu bạn phải train AI, thiết kế biểu cảm cho robot hay tiếp xúc với người khuyết tật liên quan tới biểu cảm... hay hướng tới truyền thông chính xác, bạn sẽ thấy đây là bài toán khó. Việc may mắn có bộ não bình thường vốn là di sản của hàng triệu năm tiến hóa giúp bạn dễ dàng bắt chước cách dùng miệng. Nhưng việc thực sự hiểu bản chất của nó bằng một nỗ lực học hỏi có chủ đích là chuyện hoàn toàn khác. Nếu quan tâm tới truyền thông, hoặc các kĩ năng cần dùng miệng (như diễn xuất, hát, nói...) một cách nghiêm túc, sự hiểu biết - chứ không chỉ đơn thuần bắt chước - là cần thiết.
Như vậy, phụ huynh hoặc người hướng dẫn sẽ thất bại nếu để trẻ gặp khó khăn trong việc dùng miệng kể từ giai đoạn tập nói. Việc chúng không dám nói, nói lí nhí, nói vấp, nói ngọng, nói quá to hoặc quá nhỏ... là ví dụ điển hình. Khi tôi nói rằng "nói to và rõ ràng bài học cơ bản đầu tiên", nghĩa là nó cần được ưu tiên trước các yêu cầu như "nói đúng", "nói hay" hay "nói lễ phép". Bởi "đúng", "hay" và "lễ phép" không phải vấn đề kĩ thuật; chúng là các thước đo chủ quan và liên chủ quan. Việc phụ huynh quá khắt khe và thường xuyên nạt nộ khiến trẻ ngày càng ngại mở miệng là ví dụ. Bằng việc ám ảnh với những vấn đề không phải ưu tiên, như "con phải nói chuyện lễ phép" rồi dẫn tới đưa ra quá nhiều yêu cầu phức tạp, cú pháp dài dòng, quy trình rối rắm và hình phạt nghiêm khắc sẽ khiến việc dùng miệng ngày càng khó khăn. Cuối cùng, trẻ quyết định từ bỏ chúng để ưu tiên các tác vụ đơn giản và chịu ít phán xét, trừng phạt hơn - như suy nghĩ. Tất nhiên bạn cần dạy con mình nói chuyện lễ phép, nhưng sau cùng phải đảm bảo cách dạy không làm con bạn ngại giao tiếp bằng miệng hơn. Vì "nói to và rõ ràng là bài học cơ bản đầu tiên".
Thất bại trong việc dám dùng miệng một cách tự tin từ bé trên thực tế chính là rơi vào "những chức năng bạn không chủ đích dùng" khác của miệng. Chẳng hạn, nói lí nhí hay thì thầm thực chất là một chức năng khác, chứ không phải thất bại trong việc nói rõ ràng. Như vậy, vấn đề của những đứa trẻ không dám tự tin dùng miệng là chúng đã quá... tự tin dùng các chức năng sai. Chúng dám lí nhí giữa đám đông khi cần nói to, chẳng phải quá tự tin hay sao? Có vẻ phụ huynh và người hướng dẫn đã vô tình, hoặc củng cố việc đó. Môi trường sống căng thẳng đã làm bọn trẻ phát triển khả năng đối phó. Sự thuần thục của việc nói lí nhí và cảm giác khuyến khích từ bộ não đã khiến chúng dễ dàng lựa chọn chúng thay vì nghĩ xem bối cảnh hiện tại cần gì.
Những tiếng nói lí nhí này sẽ làm tiếng nói của đứa trẻ bị hạ bậc ưu tiên, hay thậm chí biến mất khỏi hệ thống truyền thông chúng đang tham gia. Dù đó là nhóm bạn, trong lớp học, giữa hội trường hay giữa cặp đôi. Vì hãy nói tới thứ còn lại trong hệ thống truyền thông truyền miệng: đôi tai. Tiếng nói càng có âm lượng nhỏ, thiếu rõ ràng và dễ gây hiểu lầm sẽ càng gây áp lực cho việc lắng nghe. Áp lực này nếu lặp đi lặp lại thậm chí gây khó chịu và bực mình, như khi bạn lắng tai mãi nhưng chẳng thể biết người kia đang nói gì, lặp lại nhiều lần. Hoặc nó sẽ tinh vi theo kiểu bạn sẽ chú ý và ưu tiên lắng nghe hơn những giọng nói rõ ràng và có âm lượng lớn, cùng lúc loại bỏ những thứ khó nghe - một cách thụ động. Cơ thể làm vậy để tiết kiệm năng lượng và tránh bạn bị phân tâm bởi các tín hiệu nhỏ nhặt, không đáng chú ý. Như vậy, lời nói tự ti và thiếu rõ ràng sẽ bị loại bỏ vì các đơn vị truyền thông khác bên trong mạng lưới cần tiết kiệm năng lượng nhằm hoạt động hiệu quả hơn.
Một điều thú vị khác: những người nói chuyện lí nhí không hiểu được cảm giác kiệt sức của người nghe bởi tai của họ vẫn "nghe rõ" những gì họ nói. Hay tinh vi hơn, vì không biết suy nghĩ theo hướng hệ thống và hình dung tách biệt giữa "miệng", "tai", "não bộ" và "thông tin"... người có thói quen nói lí nhí thậm chí còn tưởng rằng các suy nghĩ của họ rất rõ ràng và dõng dạc. Dù thực tế họ đang im lặng và chẳng ai chú ý tới. Những bạn trẻ xây dựng hình tượng "cool ngầu" vì vậy không biết thực ra... chẳng ai thèm quan tâm tới họ, hoặc chỉ thấy họ thật kì quặc, khó gần và không phù hợp để kết nối nhằm mở rộng mạng lưới.
Vì sao "cool kid" thường cảm giác "mọi người không hiểu mình" và cô đơn? Thực ra, đó không phải cảm giác, đó là sự thật. Giao tiếp và truyền thông kém nguy hiểm ở chỗ người ta thường không làm vậy nếu họ biết mình sai, nên sự lặp lại của hành vi sai trái thường được hỗ trợ bởi các "lý do thuyết phục". Ảo tưởng nhân vật chính đã làm phần lớn chúng ta cảm thấy sự bất hảo của mình hợp lý.
Rồi những đứa trẻ ấy lớn lên và sai lầm của chúng trong việc giao tiếp, truyền thông sẽ tiếp tục mở rộng. Không chỉ nói bé và lười nói, chúng còn hát bé và lười hát; viết ít và lười viết; đăng ít và lười đăng; thông điệp cụt lủn và lười gửi thông điệp... các thói quen xấu này làm chúng bị hạ bậc trong hầu hết hệ thống chúng tham gia và mất đi lợi thế, tạo ra vòng lặp phản hồi tiêu cực dẫn tới việc tín hiệu của chúng ngày càng thu hẹp hơn nữa. Nhưng vì thời thơ ấu chúng đã quen với những thất bại này, thậm chí xem chúng là thành công (vì bớt bị bố mẹ rầy hoặc dạy đời do lỡ lời), cũng như các chức năng sinh tồn chính vẫn được duy trì nhờ an sinh xã hội... các nỗi đau trở nên âm ỉ và không kêu gọi hành động ngay lập tức. Qua thời gian, bi kịch của những "điểm truyền thông" này bị lãng quên trong mạng lưới và chỉ còn yếu ớt liên kết với việc tiêu thụ những thứ sẽ xoa dịu suy nghĩ trong đầu họ. Phim ảnh, âm nhạc hoặc sách vở có thể phần nào giúp họ cảm thấy đồng cảm và bớt cô đơn, nhưng việc thiếu đi những biện pháp kĩ thuật cụ thể - chẳng hạn được dạy để nói to và dõng dạc hơn - vẫn làm họ không thể kết nối được với mạng lưới.
Trong thời đại internet, mặc dù việc dùng miệng để nói to và rõ ràng không còn chủ đạo (dù vẫn hiệu quả bậc nhất), thái độ về việc phải dám nói thẳng, rõ ràng và dễ tiếp nhận vẫn là nguyên tắc bị khuyết bởi những đứa trẻ đã quen lí nhí. Vấn đề của việc nói to và rõ ràng trong bối cảnh truyền thông truyền miệng thực ra cũng giống khi bạn viết trên mạng xã hội: bạn không được ngần ngại, sợ hãi hoặc tự ti khi biểu đạt. Thông điệp của bạn cần được cấu trúc theo cách rõ ràng và dõng dạc để cạnh tranh với những thông điệp khác, cũng như dễ được tiếp nhận hơn bởi những "điểm truyền thông" khác. Việc vừa không dám nói lên suy nghĩ thật của mình vừa thắc mắc, lo lắng về việc không ai hiểu mình là dấu hiệu cho khó khăn cần vượt qua chứ không phải bản chất cần chấp nhận.
Việc phát hiện ai đó không dám "lên tiếng" một cách rõ ràng cũng là dấu hiệu cho bạn biết rằng đó không phải người giỏi truyền thông và cần được trợ giúp. Sự thiếu rõ ràng của thông điệp là chỉ báo cho những nỗi sợ, bất an, thiếu hướng dẫn và đào tạo... mà người đó đang phải đối mặt. Trong khi đó, khả năng dám bộc lộ ra những suy nghĩ rõ ràng, để chúng tồn tại một cách khách quan, là bước đầu tiên để người đó tự cải thiện kĩ năng truyền thông của mình. Đó sẽ là bước một. Điều này cơ bản như việc bạn cần dám hát to, bất kể chưa bắt được tông, lệch nhịp hay kiểm soát hơi còn kém... nếu muốn hát hay hơn. Những người nghĩ rằng "vì tôi hát không hay nên tôi sẽ chỉ hát nhỏ" sẽ mãi không thể hát hay và cũng không biết vấn đề thực sự của họ là việc thiếu tự tin.
Như vậy, một đứa trẻ nếu rơi vào trường hợp "không dám nói" sẽ mãi không thể nói hay. Những người bị đàn áp tới mức "không dám truyền thông" hiển nhiên sẽ mờ nhạt trong hệ thống cả đời. Việc dễ dàng rơi vào trường hợp kém cỏi này trên thực tế còn chỉ ra sẽ có rất nhiều người sẵn sàng đầu tư để khiến bạn trở nên kém cỏi cả đời - vì mục đích nào đó.
Đó là lý do tôi nói rằng, bài học cơ bản đầu tiên là phải "nói" một cách to, rõ ràng. Nó không phải đích đến, nó là khởi đầu. Việc bạn vẫn dám, sẵn sàng và được khuyến khích để làm vậy rất quan trọng. Bạn cũng cần chú ý mỗi khi bạn hoặc người xung quanh tìm ra lý do để bạn làm điều ngược lại. Những người yếu thế thường hiểu nhầm khi nghĩ rằng sẽ cần rất nhiều nỗ lực và ác ý từ người khác để biến họ trở thành kẻ yếu thế. Thực ra, chỉ cần làm ai đó thất bại trong những tác vụ cơ bản nhất, một chuỗi domino sẽ kích hoạt. Nạn nhân của nó cuối cùng sẽ thấy mình bị đè bẹp bởi một hệ thống tưởng chừng không thể thay đổi.
Đó cũng là cảm giác của những người dùng miệng một cách dè dặt. Họ cảm tưởng vũ trụ này sinh ra để đè bẹp tiếng nói của mình, và việc cố gắng lí nhí một cách tự ti sẽ giúp họ thu hút sự chú ý của Chúa hay thực thể tối cao nào đó đang quan sát.
Thực ra, họ chỉ cần nói to và rõ ràng hơn, rồi học cách chịu trách nhiệm cũng như bảo vệ tiếng nói ấy của mình. Rồi cứ như vậy.
Vũ trụ không sinh ra để đè bẹp tiếng nói của bạn. Nó chỉ không dừng lại để nghe những gì bạn thì thầm. Muốn được nghe, trước tiên bạn phải dám nói.